Trong số các bệnh lý về tim mạch, bệnh mạch vành là nguy hiểm nhất, chiếm tỷ lệ tử vong hàng đầu tại Việt Nam hiện nay. Điều đáng lo ngại là bệnh xuất hiện ngày càng nhiều, không chỉ ở những người cao tuổi mà ngay những người trẻ tuổi cũng có nguy cơ cao đối diện với bệnh lý này. Vì vậy, việc nhận biết các triệu chứng, điều trị sớm và đúng cách là điều rất quan trọng.
Bệnh tim mạch đã trở thành bệnh lý gây tử vong số một trên thế giới.
Bệnh động mạch vành xuất hiện khi có một hoặc nhiều nhánh của động mạch vành bị hẹp hay bị tắc do các nguyên nhân khác nhau, thông thường là do các mảng xơ vữa động mạch chứa mỡ, cholesterol, canxi và những chất thải của tế bào vào dòng máu, dẫn đến mạch vành không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu ôxy cho cơ tim. Thường khi động mạch vành bị hẹp trên 50%, đường kính lòng mạch lúc đó sẽ xuất hiện các triệu chứng của bệnh như đau thắt ngực, khó thở, có nguy cơ trở thành nhồi máu cơ tim nếu không được can thiệp kịp thời có thể dẫn đến tử vong.
Bệnh động mạch vành được chia làm hai thể lâm sàng, thứ nhất là hội chứng động mạch vành cấp gồm đau thắt ngực không ổn định, nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên khi huyết khối làm tắc nghẽn hoàn toàn động mạch vành và nhồi máu cơ tim cấp ST không chênh lên không tắc nghẽn hoàn toàn. Đối với hội chứng động mạch vành mạn tính là do quá trình tích tụ các mảng xơ vữa và sẽ diễn tiến âm thầm và thường không có triệu chứng cho đến khi lòng động mạch vành hẹp từ 50 đến 70% mới xuất hiện các biểu hiện của bệnh và xuất hiện khi chúng ta gắng sức.
Người cao tuổi thường mắc bệnh động mạch vành nhiều hơn người trẻ, tuy nhiên người trẻ vẫn có nguy cơ mắc, nhất là đối với những người có tiền sử gia đình có người mắc bệnh này, thừa cân béo phì, lạm dụng rượu bia, thút huốc lá…
Nguyên nhân trực tiếp gây ra bệnh mạch vành đó là sự tiến triển của quá trình xơ vữa xảy ra bên trong lòng động mạch vành, những tổn thương này tạo điều kiện cho các mảng bám cholesterol, chất thải của các tế bào khác bám vào tạo thành mảng xơ vữa mất ổn định sẽ bong tróc cùng với các tế bào hồng cầu, tiểu cầu tạo thành những cục máu đông gây tắc nghẽn mạch máu.
Biểu hiện ban đầu không có triệu chứng hoặc triệu chứng không điển hình, nếu trên 50% sẽ gây đau khi gắng sức hoặc làm các việc nặng vị trí đau ở vùng trước tim, sau xương ức, đau có thể lan lên vai lên cằm, có thể lan xuống cánh tay trái kèm theo khó thở, hồi hộp, tim đập nhanh hoặc choáng váng, chóng mặt, triệu chứng đó sẽ biến mất khi nghỉ ngơi, còn nếu cơn đau kéo dài trên 15 phút chúng ta nên lưu ý có thể sẽ bị nhồi máu cơ tim cấp và cần phải nhập viện ngay. Biến chứng thường gặp và nguy hiểm nhất của bệnh động mạch vành là nhồi máu cơ tim và đột tử. Ngoài ra, còn có các biến chứng khác như rối loạn nhịp tim và suy tim…
Phương pháp điều trị và phòng bệnh mạch vành
Có 3 phương pháp điều trị, thứ nhất là điều trị nội khoa đây là phương pháp điều trị xuyên suốt, gồm bệnh nhân phải thay đổi lối sống, hạn chế rượu bia, không hút thuốc lá, có chế độ dinh dưỡng và tập luyện hợp lý đồng thời uống thuốc theo sự hướng dẫn của bác sĩ (thuốc kháng kết tập tiểu cầu là nguyên nhân gây huyết khối, thuốc chống đau ngực, thuốc điều trị rối loạn mỡ máu…). Song song đó điều trị nhóm nguyên nhân gây ra bệnh mạch vành như tiểu đường, tăng huyết áp.
Nếu bệnh nhân bị bệnh động mạch vành cấp thì sẽ tiến hành phẫu thuật nong, đặt stent động mạch vành nhằm tái thông dòng chảy, phương pháp này phải được thực hiện ở các bệnh viện chuyên khoa. Một phương pháp nữa đó là mổ bắc cầu động mạch vành để tái thông mạch máu bị tắc.
Chuyên gia khuyến cáo, phòng tránh bệnh mạch vành chính là phòng tránh các xơ vữa và điều trị các bệnh lý là nguyên nhân gây bệnh mạch vành. Thay đổi lối sống chính là điều kiện tiên quyết để phòng bệnh hiệu quả, như bỏ thuốc lá, tập thể dục thường xuyên tối thiểu 30 phút mỗi ngày, giảm rượu bia và chất kích thích, điều trị các bệnh tiểu đường, huyết áp, thận mạn… Nếu gặp những cơn nhức đầu cấp tính, lặp lại nhiều lần người bệnh cần phải nghĩ ngay đến căn bệnh mạch vành hoặc tai biến mạch máu não và phải đến ngay bệnh viện để được thăm khám kịp thời. Tất cả người dân, đặc biệt là nam giới sau 50 tuổi và nữ giới sau mãn kinh nên đi khám định kỳ 6 tháng 1 lần, những người có tiền sử gia đình bị bệnh mạch vành, người béo phì… cũng nên đi khám thường xuyên để phát hiện bệnh và điều trị kịp thời.