Viêm não virus là bệnh nguy hiểm do nhiều loại virus gây ra, thường gây tổn thương ở não, để lại di chứng thần kinh và tử vong cao. Bệnh viêm não có thể xảy ra quanh năm nhưng mùa dịch thường bắt đầu vào các tháng mùa hè, đỉnh điểm dịch vào các tháng 5,6,7. Đối tượng có nguy cơ cao bị mắc bệnh là trẻ em dưới 15 tuổi.
Nguyên nhân gây viêm não thường là các vi rút gây bệnh lây qua trung gian côn trùng tiết túc như muỗi, ve… (trong đó có vi rút viêm não Nhật Bản), vi rút Herpes, các vi rút đường ruột (như EV71 gây bệnh tay chân miệng), sởi, quai bị và các vi rút khác,... Bệnh viêm não Nhật Bản chỉ là một trong những nguyên nhân phổ biến gây bệnh viêm não vi rút ở nước ta. Từ trước những năm 1997, nguyên nhân gây viêm não vi rút chủ yếu là vi rút viêm não Nhật Bản chiếm tới 61,3% trong tổng số các ca viêm não. Nhờ kết quả phòng bệnh của chương trình triển khai tiêm vắc xin viêm não Nhật Bản tại nước ta, số trường hợp viêm não do vi rút, viêm não Nhật Bản đã giảm đáng kể, đến nay chỉ còn chiếm khoảng 10-15% tổng số các trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút.
Biểu hiện chính của bệnh là có sốt cao và kèm theo các triệu chứng liên quan đến tổn thương hệ thần kinh trung ương bao gồm: nhức đầu dữ dội, buồn nôn và nôn mửa, cứng cổ, lú lẫn, mất định hướng, thay đổi nhân cách, co giật, rối loạn nghe nói, ảo giác, mất trí nhớ, đờ đẫn, hôn mê... Người già và trẻ em là những người có nguy cơ cao bị mắc bệnh nặng, biến chứng và tử vong.
Do các triệu chứng lâm sàng rất khó phân biệt giữa các chủng vi rút, nên việc chẩn đoán nguyên nhân phải cần đến việc xét nghiệm xác định vi rút. Tùy theo nguyên mà có cách phòng bệnh chủ yếu như sau:
1. Đối với vi rút gây bệnh viêm não Nhật Bản đã có vắc xin phòng bệnh, thực hiện tiêm vắc xin viêm não Nhật Bản đầy đủ và đúng lịch là biện pháp phòng bệnh quan trọng và hiệu quả nhất. Tuy nhiên, nếu chỉ tiêm 1 mũi vắc xin thì không có hiệu lực bảo vệ, nếu tiêm đủ 2 mũi vắc xin hiệu lực bảo vệ đạt trên 80%, tiêm đủ 3 mũi vắc xin hiệu lực bảo vệ đạt 90-95% trong khoảng 3 năm, do đó trẻ em cần tiêm chủng với 3 liều cơ bản như sau:
Mũi 1: lúc trẻ được 1 tuổi; mũi 2: sau mũi 1 từ 1 đến 2 tuần; mũi 3: cách mũi 2 là 1 năm. Sau đó cứ 3 năm tiêm nhắc lại một lần cho đến khi trẻ qua 15 tuổi.
2. Đối với các chủng vi rút như sởi, quai bị,… bệnh lây qua đường hô hấp cần phải cách ly người bệnh cũng như hạn chế việc tiếp xúc trực tiếp với người bệnh, sử dụng các biện pháp phòng hộ như đeo khẩu trang khi chăm sóc người bệnh. Trong số các chủng vi rút này, một số chủng vi rút gây bệnh đã có vắc xin phòng bệnh như sởi, quai bị, cần phải chủ động tiêm vắc xin để phòng bệnh và những biến chứng viêm não của các bệnh này.
3. Đối với các vi rút đường ruột như enterovirus 71 gây bệnh tay chân miệng qua đường tiêu hóa và tiếp xúc trực tiếp, việc vệ sinh cá nhân là yếu tố quan trọng hàng đầu do hiện chưa có vắc xin phòng bệnh đặc hiệu, trong đó việc rửa tay với xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, vệ sinh ăn chín, uống chín là những biện pháp phòng bệnh đơn giản và hiệu quả.
4. Đối với các vi rút gây bệnh lây qua côn trùng tiết túc như muỗi, ve… đốt, việc quan trọng nhất là hạn chế các nguy cơ bị côn trùng, muối đốt khi sinh hoạt hoặc làm việc ngoài trời đặc biệt là vào lúc bình minh hoặc hoàng hôn (là thời điểm muỗi hoạt động mạnh nhất) thông qua việc mặc áo quần phủ kín tay, chân như mặc áo dài tay, mang vớ cùng với việc sử dụng các chất xua đuổi côn trùng, nằm mùng khi ngủ. Để hạn chế sự phát triển của muỗi gây bệnh, cần phải thường xuyên vệ sinh môi trường, phát quang bụi rậm, làm thông thoáng cống rãnh, đậy kỹ các vật dụng chứa nước, loại bỏ các dụng cụ thừa có khả năng đọng nước nhằm giảm thiểu nơi cư ngụ cũng như nơi đẻ trứng của muỗi, kết hợp với phun hóa chất diệt muỗi ở những nơi có mật độ muỗi cao.
Như vậy, vi rút gây bệnh viêm não có nhiều loại khác nhau, vì thế, cùng với việc tiêm phòng đầy đủ, cần bổ sung đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết đặc biệt là ở trẻ em, giữ gìn vệ sinh môi trường, vệ sinh cá nhân sạch sẽ. Việc này là rất cần thiết, đặc biệt khi thời tiết đang vào mùa nắng nóng, là điều kiện thuận lợi cho vi rút viêm não phát triển.