Ung thư vú là căn bệnh phổ biến ở phụ nữ Việt Nam và hầu hết các nước trên thế giới. Theo thống kê của tổ chức ghi nhận ung thư vào năm 2022, mỗi năm, nước ta ghi nhận 24.563 ca ung thư vú mới, chiếm 28,9% tổng số ca ung thư ở nữ giới và có khoảng 10 nghìn phụ nữ tử vong vì căn bệnh này.
Lan tỏa thông điệp nâng cao nhận thức phòng chống ung thư vú trên nhiều tuyến phố của Hà Nội.
Ung thư vú luôn là căn bệnh đáng lo ngại với phụ nữ trên toàn thế giới. Báo cáo mới nhất cho thấy, mặc dù tỷ lệ tử vong do ung thư vú tiếp tục giảm nhưng tỷ lệ mắc bệnh tăng mạnh hơn ở những phụ nữ dưới 50 tuổi...
Ung thư vú là tình trạng bệnh lý do tế bào tuyến vú phát triển không kiểm soát được tạo ra các khối u ác tính, có khả năng xâm lấn xung quanh và di căn xa.
Tiến sĩ, bác sĩ Lê Thu Hà, Trưởng khoa Nội 1 (Bệnh viện Ung bướu Hà Nội) cho biết, ung thư vú đứng hàng đầu về tỷ lệ mắc mới tại Việt Nam, nhưng tỷ lệ bệnh nhân chẩn đoán ở giai đoạn III, IV còn cao và xu hướng tuổi người mắc ung thư vú trẻ hóa. Một số nghiên cứu cho thấy, có tới 15% số bệnh nhân dưới 40 tuổi, 45% số bệnh nhân dưới 50 tuổi được chẩn đoán ung thư vú di căn. Dù có nhiều tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị, song ung thư vú vẫn là gánh nặng với tiên lượng kém trên một số nhóm bệnh nhân. Tỷ lệ sống hơn 5 năm ở những bệnh nhân di căn chỉ khoảng 30% và bệnh nhân tái phát chỉ 17%.
Với sự phát triển của y học, hiện có nhiều tiến bộ trong sàng lọc, chẩn đoán và điều trị có thể gia tăng tỷ lệ điều trị khỏi và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh. Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Cẩm Phương, Giám đốc Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu (Bệnh viện Bạch Mai) chia sẻ, điều trị ung thư vú là điều trị đa mô thức: Phẫu thuật, xạ trị, hóa trị, điều trị đích, điều trị nội tiết, điều trị miễn dịch, chăm sóc giảm nhẹ. Với những người bệnh được phát hiện ở giai đoạn sớm hoàn toàn có thể chữa khỏi bệnh bằng phẫu thuật, xạ trị hoặc điều trị toàn thân.
Ở giai đoạn tại chỗ thì phương pháp điều trị là hóa trị hoặc sinh học, phẫu thuật, xạ trị, điều trị hỗ trợ. Đến giai đoạn di căn thì các phương án điều trị là hóa trị, nội tiết, sinh học... nhưng cũng chỉ là điều trị kéo dài. Việc chọn phương án điều trị ung thư vú phải dựa trên đặc điểm bệnh lý (giai đoạn bệnh, đặc điểm mô bệnh học, các đột biến gien, tiến triển bệnh...) cũng như đặc điểm bệnh nhân (thể trạng, tuổi, bệnh lý đi kèm).
Ở giai đoạn nào hay phương pháp gì thì việc tuân thủ điều trị rất quan trọng, giúp điều trị hiệu quả ở mức cao nhất và chi phí hợp lý. Mặt khác, tâm lý người bệnh phải thoải mái, sống vui-sống khỏe-sống lành mạnh, ăn uống đủ chất dinh dưỡng, nghỉ ngơi, tập luyện hợp lý... để giúp tuân thủ điều trị tốt nhất.
Các chuyên gia chuyên ngành ung thư cũng lưu ý, bên cạnh nhận thức của người dân vẫn còn hạn chế thì trong quá trình tìm hiểu thông tin về bệnh, nhiều người dễ dàng gặp phải những thông tin không chính thống, ảnh hưởng đến quá trình điều trị.
Hiện nay, y học đã đạt nhiều tiến bộ trong điều trị ung thư vú, từ phẫu thuật, xạ trị, hóa trị cho đến các phương pháp tiên tiến như liệu pháp nội tiết, nhắm trúng đích và miễn dịch. Những bước tiến này đã nâng cao chất lượng điều trị, mang lại hy vọng cho nhiều bệnh nhân. Nhờ đó, tỷ lệ phát hiện ung thư vú ở giai đoạn sớm (giai đoạn 0, 1,2) đã đạt 76,6% so với 52,4% ở thời kỳ những năm 2008-2010.
Nếu được chẩn đoán sớm, tỷ lệ sống thêm 5 năm của bệnh nhân có thể lên đến 90%, thậm chí với nhóm bệnh nhân trẻ tuổi, tỷ lệ sống thêm 10 năm ở giai đoạn sớm là hơn 80%.
Phụ nữ cần làm gì để giảm nguy cơ ung thư vú?
Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, có nhiều yếu tố nguy cơ gây ung thư vú, trong đó có các yếu tố nguy cơ liên quan đến lối sống như: chế độ ăn uống, sinh hoạt vận động… có thể làm tăng khả năng phát triển ung thư vú. Nhưng vẫn chưa biết chính xác cách một số yếu tố nguy cơ này khiến các tế bào bình thường trở thành ung thư.
Mặc dù không có cách chắc chắn nào để ngăn ngừa ung thư vú nhưng có một số điều phụ nữ có thể làm để giảm khả năng mắc bệnh đó là: Thường xuyên hoạt động thể chất; Ăn uống đủ dinh dưỡng, cân bằng, ưu tiên thực phẩm lành mạnh; Duy trì cân nặng hợp lý; Cho con bú…
Điều này là do một số yếu tố nguy cơ ung thư vú liên quan đến hành vi cá nhân hoặc lối sống như chế độ ăn uống và hoạt động thể chất. Các yếu tố nguy cơ liên quan đến lối sống khác bao gồm quyết định dùng thuốc có chứa hormone. Phụ nữ nên cân nhắc và tư vấn bác sĩ cụ thể khi lựa chọn liệu pháp hormone điều trị các triệu chứng mãn kinh.
Việc chủ động sàng lọc tầm soát ung thư rất quan trọng, các nhà khoa học khuyến cáo mọi phụ nữ nên chủ động tự kiểm tra vú, khám sàng lọc và chụp nhũ ảnh thường xuyên để phát hiện sớm ung thư vú.
Đồng thời tất cả phụ nữ đều có thể giảm nguy cơ ung thư vú bằng cách duy trì lối sống lành mạnh, bao gồm duy trì cân nặng hợp lý, tập thể dục thường xuyên, hạn chế hoặc tránh uống rượu. Cho con bú sau khi sinh con cũng có thể làm giảm nguy cơ ung thư vú.
Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ khuyến cáo phụ nữ nên bắt đầu chụp nhũ ảnh hàng năm ở độ tuổi 40. Từ 45 - 54 tuổi, nên chụp nhũ ảnh hàng năm. Khi bước sang tuổi 55, phụ nữ không có nguy cơ cao có thể lựa chọn chụp nhũ ảnh hai năm một lần. Những người có tiền sử gia đình mắc ung thư vú nên thông báo cho bác sĩ chăm sóc sức khỏe ban đầu để được sàng lọc sớm hơn 40 tuổi.